Bánh phu thê Đình Bảng ngon đặc trưng làng quan họ
Bánh Phu Thê Đình Bảng có gì khác lạ so với các nơi khác trong nước ta? Xin thưa: Nó không gói thành hình tròn, nhỏ, bọc giấy bóng kính trong suốt như của Hà Nội, Huế hay TP Hồ Chí Minh mà có dạng hình vuông, to dẹt, được bao bọc bằng lá dong hoặc lá dừa xanh buộc sợi lạt điều tươi thắm. Bánh Phu Thê Đình Bảng được làm bằng bột nếp chứ không phải bột Hoàng tinh như những vùng quê khác.
Bánh Phu Thê được tạo nên bởi sự pha trộn tổng hợp giữa những nguyên liệu truyền thống hết sức quen thuộc đối với mỗi người dân đất Việt như: gạo nếp, đỗ xanh, quả dành dành, hạt vừng, hạt sen, đu đủ. Trong quá trình làm bánh có nhiều công đoạn mà công đoạn nào cũng đòi hỏi sự tỷ mỉ, chu đáo. “Của một đồng công một gánh” cũng không ngoa.
Thuở nhỏ, từng nghe ông bà cha mẹ kể về món bánh độc đáo của làng cổ Đình Bảng (Từ Sơn – Bắc Ninh) – nơi sinh ra vương triều Lý hiển hách trong lịch sử dân tộc và nền văn hóa Đại Việt, nhưng lúc bấy giờ tôi đâu được biết hương vị đích thực của món đặc sản ấy thế nào.
Bởi chiến tranh, loạn lạc, đói khổ kéo dài bao nhiêu năm ai còn có điều kiện bày vẽ món bánh cao sang – dân dã.
Mãi đến năm 1995, Rằm tháng Ba (âm lịch) kỷ niệm 985 năm ngày lễ đăng quang vua Lý Thái Tổ (Công Uẩn) – người sáng lập kinh đô Thăng Long, tại đền Đô thờ 8 vị vua Lý lần đầu tiên tôi và các hậu duệ đời 26, 27 của Hoàng Thúc Lý Long Tường từ Hàn Quốc về thăm lại “cố hương” sau 8 thế kỷ đã được thưởng thức đặc sản Phu Thê truyền thống trong không khí tình nghĩa cội nguồn.
Bánh Phu Thê Đình Bảng có gì khác lạ so với các nơi khác trong nước ta? Xin thưa: Nó không gói thành hình tròn, nhỏ, bọc giấy bóng kính trong suốt như của Hà Nội, Huế hay TP Hồ Chí Minh mà có dạng hình vuông, to dẹt, được bao bọc bằng lá dong hoặc lá dừa xanh buộc sợi lạt điều tươi thắm. Bánh Phu Thê Đình Bảng được làm bằng bột nếp chứ không phải bột Hoàng tinh như những vùng quê khác.
Đã thành thói quen “thâm căn cố đế”, dù nhiều hay ít ruộng, người Đình Bảng từ bao đời nay vẫn có ý thức dành riêng một vạt ruộng cấy nếp cái hoa vàng. Thứ nếp “Hoa hậu”, “Liền chị” này được xay lọc kỹ thành loại bột trắng tinh, mịn mượt hảo hạng. Cứ 10 kg gạo nếp cái hoa vàng thì được 4 kg bột bánh. Thứ bột lọc “trong như ngọc, trắng như ngà” vẫn còn “tươi” không thể đem ra dùng ngay vì như thế bánh sẽ nát mà phải phơi thật khô trong 15 ngày thì làm bánh mới đảm bảo được độ dai, độ dẻo vốn là đặc trưng quan trọng của đặc sản này. Vì vậy, bột bánh phải làm vào mùa hanh khô trong điều kiện ngày nắng, đêm lạnh thì bột sẽ thơm ngon, không bị chua, không bị chảy bánh.
Bánh Phu Thê được tạo nên bởi sự pha trộn tổng hợp giữa những nguyên liệu truyền thống hết sức quen thuộc đối với mỗi người dân đất Việt như: gạo nếp, đỗ xanh, quả dành dành, hạt vừng, hạt sen, đu đủ. Trong quá trình làm bánh có nhiều công đoạn mà công đoạn nào cũng đòi hỏi sự tỷ mỉ, chu đáo. “Của một đồng công một gánh” cũng không ngoa.
Người ta lấy nước tinh khiết ngâm quả dành dành cho hừng lên màu vàng óng và chưng cất hoa bưởi thành tinh dầu ngát thơm rồi nhào trộn cùng đường kính, sợi đu đủ (đã ngâm phèn, rửa sạch vắt kiệt nước)… theo một tỷ lệ nhất định cho đến khi thật dẻo quánh để làm vỏ bánh.
Nhân bánh được làm bằng đỗ xanh đồ chín giã cho tơi mịn đem xào nhuyễn với đường kính, cùi dừa “bánh tẻ” nạo nhỏ và mứt hạt sen.
Sau khi tạo đủ phẩm lượng, hình thể bánh, người ta mặc cho nó hai lớp “áo lá”: lá chuối bên trong, lá dong bên ngoài và điểm xuyết lên đó một sợi lạt đỏ mà dân gian gọi vui là “dây tơ hồng”.
Có điều lớp “áo lá” gói bánh Phu Thê phải được lau rửa cho thật sạch và để ráo nước, tước bớt cọng để khi gói bánh được mềm mại. Lá lót trong phải là lá chuối tây luộc chín hong khô có mùi thơm dịu chứ không được dùng lá chuối tiêu. Người ta còn quét lên “áo lá trong” một lớp mỡ để khi bóc bánh không bị dính, lại làm cho bánh có độ ngậy đặc trưng. Với mong cầu hạnh phúc cho lứa đôi và sự sung túc trong gia đình, bánh Phu Thê Đình Bảng được buộc thành từng cặp (người ta kiêng không để lẻ bánh).
Chiếc bánh trông có vẻ đơn giản nhưng chứa đựng trong mình cả một triết lý Á Đông sâu sắc. Nhân bánh hình tròn nằm trong vỏ bánh hình vuông biểu tượng cho vũ trụ “trời tròn – đất vuông”, cho quan niệm âm – dương, tình nghĩa vợ chồng gắn bó khăng khít với nhau.
Bánh gói lá xong cho vào nồi luộc. Người nội trợ khéo phải biết tùy cơ ứng biến điều chỉnh ngọn lửa khi nấu để bánh thơm ngon mỹ mãn. Trong vòng 40 phút canh chừng bên bếp lửa thấy bánh phồng căng lên là vừa chín tới thì nhanh tay vớt bánh ra. Sau lần “áo lá” kép tươi xanh dường như là sự hội tụ hài hòa những hương vị quen thuộc từ sản phẩm đồng quê được kết tinh từ tài nghệ chế biến của các “liền chị” trên quê hương Quan họ.
Bánh bóc ra trong suốt, mịn màng như hổ phách. Trên nền màu nắng lụa của vỏ bánh thấp thoáng những “vân mây” sợi đu đủ. Hương thơm như được lan tỏa từ hương bưởi mùa xuân, cánh đồng lúa nếp cái hoa vàng vừa độ tháng mười cộng với vị bùi của đậu xanh và hạt sen, vị béo của cùi dừa, độ giòn sần sật của đu đủ, vị ngọt của đường hòa quyện vào nhau làm thành hương vị rất riêng của bánh. Chỉ nhìn thôi đã thích, chưa nếm đã thèm, nếm rồi nhớ mãi không quên. Ăn miếng bánh người ta nghĩ đến một thú vui ẩm thực tao nhã mà không kém phần cầu kỳ của dân Đình Bảng.
Từ khi đất nước “mở cửa”, nghề làm bánh Phu Thê Đình Bảng được khôi phục và có cơ hội phát triển. Nó không chỉ đem lại danh thơm cho làng quê ngàn năm văn hiến mà còn mang lại lợi nhuận thiết thực cho những gia đình kinh doanh đặc sản này.
Đến Đình Bảng thăm những di tích lịch sử của quê hương các vua Lý, nếu du khách muốn thưởng thức bánh Phu Thê hay mua làm quà cho người thân thì lúc nào cũng có thể tìm thấy ở chợ làng, trước cửa Đền Đô và các hàng quán dọc đường…
Món bánh Phu Thê vẫn quý nhưng không còn hiếm nữa vì nó được làm quanh năm.
Những người làm bánh Phu Thê gia truyền nổi tiếng của Đình Bảng cho biết: Su Sê là tiếng gọi chệch của từ Phu Thê (có nghĩa là vợ chồng) bởi bánh thường đi liền từng cặp và là một trong lễ vật không thể thiếu trong đám cưới hỏi của người Kinh Bắc, như một biểu tượng chung thủy của lứa đôi. Tương truyền, khi vua Lý đi đánh giặc, Hoàng hậu ở nhà thấy thương nhớ chồng đi đánh giặc ở phương xa gặp nhiều khó khăn về lương thực nên đã tự tay làm ra chiếc bánh từ loại nếp cái hoa vàng gửi cho chồng nơi chiến trường. Khi vua ăn thấy hương vị thơm ngon như thấm vào từng “chân tơ kẽ tóc” của các giác quan đã đặt tên là bánh phu thê để đề cao tình cảm vợ chồng sắt son.
Dần dần bánh Phu Thê trở thành nét văn hóa đặc trưng Đình Bảng và được dùng trong việc trọng đại của gia đình, họ hàng, làng xã vào những ngày lễ tết cúng tế trời – Phật – Tổ tiên và dịp hội hè đình đám khao đãi khách quý, bạn bè.
Leave a Reply